Huyền Công La Phù Sơn

Huyền công có xuất xứ từ ngọn núi La Phù Sơn bên Trung Hoa, là một trong những dảy núi danh tiếng của khu vực lưỡng Quảng. Không những chỉ nổi bật đơn thuần với vẻ danh lam, La Phù Sơn còn được biết tới nhờ có những ngôi cổ tự ẩn chứa nhiều học thuật thất truyền lâu nay từ thời chống nhà Mãn Thanh với nhiều vị chân tu đắc pháp cố gìn giữ lưu truyền đến thế hệ sau. Do một cơ duyên riêng biệt, một người Việt Nam thuở thiếu thời được dung nạp thâu nhận trong hàng xuất gia đệ tử có pháp hiệu là Nam Hải Chân Nhân để lại sau lưng một bầu trời nam với cái tên húy Nguyễn Mạnh Đức. Đó là câu chuyện của gần 100 năm trước. Sau do thế sự nhiễu nhương loạn lạc, Người khăn gói về cố hương, đem theo mình một trời tâm đắc học thuật, không màng danh lợi tìm chốn ẩn tu, lúc rnh ri thì truyền dạy quanh quẩn con cháu trong nhà. Một trong các tuyệt kỹ căn bản để làm điểm tựa của sức bật toàn thân là Hồng Quyền trước khi vươn đến bất kỳ một học thuật nào khác cao hơn. Tưởng cũng nên có đôi lời thông qua để chúng ta không khỏi có những ngộ nhận với một môn phái khác cũng có tên là Hồng Gia (HUNG-GOR…HUNG FIST  v.v..)  do danh sư Hồng Hy Quan sáng lập và rạng danh quyền pháp Thiếu Lâm.

 

 Hồng quyền La Phù Sơn là đường lối dị biệt luyện tập của trường phái đạo gia tu tiên chuyên luyện Huyền công làm căn cơ bản. Đó chính là Hồng quyền 36 nét liền lạc hay còn gọi là Huyền công chủ về sự tập luyện toàn bộ hệ cơ gân toàn thân.

 

-Khác với ngoại gia công phu thuộc các môn phái chú trọng vào luyện tập các cơ bắp nở nang, bàn tay chủ về công phá ngạnh công, quyền pháp hung hãn mảnh liệt, cước thoái nhất chiêu đoạt mạng, thân luyện Thiết Bố Sam hay Kim Chung Tráo, có một sức chịu đòn rất cao do sự gồng co các cơ bắp thật chặt.

-Khác với nội gia Khí công chuyên xử dụng âm kình hoặc dụng Lực trả Lực nhờ phối hợp xử dụng thân pháp toàn thân như Du Long của Võ Đang.

 

          Huyền công của La PSơn  từ thấp đến cao tập luyện vượt qua sự ràng buột hạn hẹp của các cơ gân nơi nhân thể bình thường, từ đó có thể thâm nhập sâu hơn vào nhiều đường lối  thuật, tạo riêng cho mình một tuyệt k  nghệ hoặc vng vàng thăng hoa thân tâm hướng về  đạo.

 

          Những nét đầu tiên căn bản của HCLPS thoạt nhìn rất bình thường nhưng hàm chứa những ảo diệu dụng về sau chỉ khi một môn sinh đã thành đạt và liễu ngộ.

 

Là vì sao? Là vì họ không những chỉ tôi luyện riêng một đường nét mà còn khai phá tự thân mình một lối đi, một đường đi của gân. Máu trong lộ trình chu lưu bao lâu từ gân đã tải Oxy về nuôi dưỡng xương cốt, đã tạo và tụ lượng Calcium và Phosphoric cần thiết cho xương cốt phát triển rắn chắc.

Cương Nhu của Huyền công là vậy,là sự mềm mại, uyển chuyển, nhanh lẹ, chính xác kèm theo một lực lượng hùng hậu tùy nghi xử dụng.

          36 nét-nối-liền của Huyền công là sự khai phá 12 đường kinh mạch châu thân thông qua sự tương tác với gân nơi bả vai và ngực.

Khai: là mở đường cho huyết tẩu tán

Phá: là dẹp tan đi các trì uất chướng để Khí có nơi tụ.

 

          Sau giai đoạn đầu tập Huyền Công giúp cho sự vận chuyển của gân có được sự co giãn khả quan vượt mức nhân thể bình thường, những đường kinh mạch đã dần khai chuyển. Chúng ta đã tự tạo cho mình một lực lượng đáng kể, một lực lượng “vốn liếng” hùng hậu, bước kế tiếp chúng ta sẽ làm gì với lực lượng đó? Hay là để hụt hng tiêu hao mất dần nếu không còn luyện tập…  Huyền Công LPS thoát xác vương lên với phương pháp tụ lực thành một khối Khí trong đan điền. Nghe qua hời hợt thì thấy dễ vậy, sự tập luyện mới quả thật là chông gai.

 

Biết bao võ phái và võ sinh đã bị dừng lại tại giai đoạn bình cảnh này vì có chút nhầm ln trong sự luyện khí. Đại đa số quan niệm răng: “Nín thở, dồn hơi xuống bụng, gồng cứng, vung quyền chưởng” là phương pháp tập Khí Công.

Thật ra, nếu đơn giản như vậy, ai cũng đã có thể luyện thành và Nội Công hay Khí Công từ lâu không còn là bộ môn bí truyền.

Khởi đầu từ huyệt Đan Điền là một trong những Linh huyệt tối quan trọng và tối mẫn cảm, chúng ta thử đặt 3 ngón tay ngang ngay dưới rún. Đó là phạm trù hoạt động của nguyên một khu vực gọi chung là Khí Hải (Bể khí) cứ mỗi quan tiết trên ba ngón tay đi xuống là một tiểu linh huyệt khác nhau, mà ngón giữa mới đúng là vị trí của đan điền huyệt hay vì vậy còn gọi là Trung Đan Điền.

 

 Khí công nếu tập không đúng phép, nhất là với các phương pháp điều dẫn bức bách thường hay đưa khí nghịch xung vào Thượng đan điền hay đẩy khí hãm vào Hạ đan điền.

Thượng đan điền là nơi nhạy cảm với thần kinh trung ương chi phối thất tình chí trong ta. Khi có điều gì phiền muộn, buồn bực, uất ức; hơi thở chúng ta thường rất ngắn, vội vã, gấp gáp do nộ khí trong ta xung lên. Những lúc đó, người Việt mình hay nói: “tôi tức quá, tức quá”. 

 

Tức tiếng Hán có nghĩa là hơi thở. Phép điều tức là phép điều hòa hơi thở theo một đường lối nào đó. Thiền sổ tức là một pháp Thiền đếm hơi thở mà chính bản thân Đức Phật dùng tham thiền dưới cội bồ đề khi xưa.

Khi nói tôi tức quá có nghĩa là giai đoạn gây rối loạn và xung lên vì một lý do ngoại cảnh nào tác động lên làn hơi thở trong ta và biến tánh nó thành Hỏa.  Người Trung Hoa có cùng một quan niệm trên tuy lúc đó họ không nói là: “tôi tức quá” mà lại nói: “ngộ phát Phổ” nghĩa là “tôi phát Hỏa”. Những lúc như vậy, người ngoài thường khuyên ta hít hơi chậm lại và lắng động thật sâu để dẩn các luồng nghịch tức xuống các huyệt bên dưới để di dưỡng lại luồng thanh khí.

Người miền nam VN thật thà thường nói: “ tôi vui cái bụng…bụng dạ người đó hẹp hòi…cái bụng tôi yên…”, Người bắc chữ nghĩa cũng nói: “Dạ vâng (bụng tôi xin nghe)…xin anh vui lòng…con nợn nòng…

Chúng tôi dẫn chứng dài dòng là để các bạn nhận thấy được mật thiết liên quan của sự hoạt động vô hình giữa thượng đan điền và ảnh hưởng của nó trực tiếp đến những cảm xúc trong ta, nhất là tác hại hiện thực khi ta dn một lực lượng khí vào quấy nhiễu và khích động nếu luyện tập không đúng phép. Sao gọi là luyện không đúng phép? HCLPS thuộc về Đạo gia nên nghiên cứu thâm nhập phép Dưỡng sinh hợp với tác động thiên nhiên và nhận thức ra tầm quan trọng của Dương Khí Quang Khí vào buổi ban ngày. Nếu min cưỡng tập mãi vào ban đêm, khí bị khuy động thành hoả và quay ngược thiêu đốt phần âm trong ta. Âm chủ về Tinh, Huyết, và các chất Dịch trong người. Âm nếu cạn kiệt không thể hổ trợ cho luồng thanh khí nên dần biến thành trọc hỏa kích động không ngừng Can Mộc. Hiện tượng các võ sinh sau một thời gian tập luyện thấy khí huyết phương cương, nóng nảy, thích đấu đá tranh chấp, thích thử vài miếng thường thấy khắp ngoài đời. Khi về đến nhà lại hay bực tức nóng giận la hét vô cớ vô lý không tự kềm chế xảy ra cũng do sự luyện khí không đúng phép loạn động đến thượng đan điền.

 Các điều kiện sau đây được khuyên là nên tránh:

-Nín thở dồn hơi thật sâu và lâu.

-Lao sức quá đáng

-Ngoại cảnh thất tình chi phối nhưng mình vẫn buộc mình luyện tập

-Nhọc mệt kiệt sức vẫn ráng luyện tập

-Mang nội ngoại thương tích còn ráng luyện tập v.v…

-Tập luyện vào buổi chiều tối

 

          Tai hại khi tập luyện không đúng ảnh hưởng đến thượng đan điền là như thế, nhưng vẩn không đáng ngại bằng sự dn khí xuống hạ đan điền. Huyệt hạ đan điền chủ về sinh khí hạ thân, chi phối khu vực Nê Hoàn Cung trung ương trên đầu. Tinh (hoạt động khí hóa của hạ đan điền) hóa Khí (nơi trung đan điền), Khí hóa Thần (ảnh hưng hạ đan điền trên cung Nê Hoàn).

Cho nên ngoài công năng tác động sinh hóa trong người, hạ đan điền còn giữ những chức năng tác động cao về tâm thần và tâm linh.

Cụm từ Tẩu Hỏa Nhập Ma ta thường nghe do Tinh sau khi đã hóa Khí, nhưng Khí lạc đường biến thành Hỏa không thể hóa thành Thần là nói đến chướng ngại này thường chỉ xảy ra ở các võ sư trình độ cao cấp vướng phải trong khi các võ sinh nhập môn lại kẹt ở thượng đan điền.

 

 Chúng ta có thể nhìn thấy một số nguyên nhân:

-Do sự cấp bách luyện tập quá độ ngày và đêm

-Do thiếu sót không luyện tập Thiền Định

-Do khí lực xung mãn hít vào giam hãm hơi quá sâu

-Do thất tình lục dục chi phối khi Danh đã cao

-Do khi lên trình độ cao, không tìm được chân pháp và Minh Sư

         

          Luồng khí lực lúc đó bị đẩy sâu xuống hạ đan điền khiến sau một thời gian Tinh Khí Hạ Thân bị bức bách mà tự xuất hoặc bị thiêu cạn. Khí biến thành Tướng Hỏa bốc lớn đốt mờ cung Nê Hoàn…có người biến thành rồ dại phóng cuồng. có người tự xưng tự phong các chức vụ Thượng Đế Thần Tiên, có người mất cả lương tri tán tận lương tâm. Tuy vậy, trong giai đoạn đó, không ai có thể chối cãi được sức lực kinh hồn với những khả năng vô biên vô song của họ. Nhưng cũng chỉ trong một thời gian ngắn sau khi sinh lực chóng cạn kiệt, trí óc thêm mơ hồ, các nhân vật đó trở nên gần như tàn phế cả về thể lực lẩn tâm linh. Đời khinh ta, ta giở giọng khinh đời.

 

          Huyền công LPS một khi đã luyện vượt qua được giới hạn đầu tiên là gân cốt, bước kế tiếp như đã dẩn ở trên với vốn liếng nguyên khối kình lực (Đạo), chúng ta tôi luyện, làm quen, nhập tâm kình độ đó (Đức) bng các lối: Tụ kình, Vận kình, Phát kình, Phẩy kình, Phất kình, Thính kình, Triệt kình. Tán kình v.v… qua phương pháp di dưỡng Khí ở Trung Đan Điền. Chính tự đó, Khí mới chu lưu một vòng hiệp với Nhâm và Đốc mạch thành một lực lượng tuần hoàn như một nguồn cung cấp nhiên liệu vô hạn không ngừng để xử kình theo ý muốn (Dụng).

 

          Tập luyện Khí không phải là sự ém hơi để tức khắc (trong một làn hơi) biến thành khí lực, mà là sự di dưỡng nuôi dưng khí bằng phương pháp Huyền Công tại Trung Đan Điền như là một cái vốn (Đạo) để sau đó dần sinh lợi tức cao (Đức) và làm gì với lợi tức đó là sự biến chiêu của các môn phái võ thuật (Dụng).

 

          Tóm lại, Huyền công LPS chú trọng ở cung cách tập luyện hơn là ở chiêu số hoặc phân thế song đấu luyện…Luyện tập vào buổi sáng, khai mở các cơ gân, an ổn tình chí, kiên trì từng bước vững chắc cùng với khoảng thời gian lâu dài.

 

Công: là sức lực bỏ ra để làm một việc gì.

Phu: là thời gian trải dài theo Công.

Vậy Công phu – Kung Fu không nên hiểu theo một chiều hướng hạn hẹp như là một đường lối hay một võ phái đấm đá mà nên được hiểu là sự thành đạt ấn chứng bởi thời gian và công sức.

 

 

          Huyền Công LPS mang ẩn nghĩa chữ Huyền là vì vậy. Huyền chi hựu Huyền. Vì sao đã Huyền rồi lại trở về Huyền? 36 đơn thức ở giai đoạn đầu là sự khai mở các cân kinh, ở giai đoạn giữa có khác đi một ít tiểu tiết trong chiêu thức để dn khí nuôi dưỡng nơi Trung Đan Điền và ở giai đoạn sau cuối là phát kình xử dụng. Tuy cùng là một chiêu thức nhưng mi giai đoạn có khác nhau đôi chút về nội dung ln hình thức. Do vậy, ít nhiều môn sinh khắp nơi tỏ ra hoang mang vì một vài dị biệt, chẳng qua là do căn cơ và sự luyện tập ở mi giai đoạn có khác. Đúng Sai Phải Trái chỉ là móc thời gian.

 

          Huyền Công tập mãi còn tập mãi, được ứng dụng luyện tập suốt đời từ là bước đầu căn bản của võ thuật đến giai đoạn cao của tâm pháp dưỡng sinh

Lúc trước, khi còn là cậu bé con tầm thường, tôi nhìn thấy núi là núi,  thấy sông là sông là sông…Lớn lên một đổi, bắt đầu tập tểnh với những Thiền Pháp cao sâu, những Tiên Đạo vời vợi, đôi khi tưởng thấy mình như phi thường, cũng lắm lúc hơi bất thường tưởng chừng có thể lấp núi dời sông, tôi nhìn thấy núi không còn là núi, thấy sông không còn là sông…đến lúc tuổi già (cụ ngoại tôi thường nói: Tuổi không phải là khoảng thời gian con sống, mà là khoảng không gian con trầm mình), tâm hồn tàn thu đã nhiều bận nhuộm màu quan san, ơ hay, nhìn lại mới thấy sông vẫn chỉ là sông, thấy núi vn chỉ là núi…Mừng quá rủ sạch bụi sông hồ đứng hét to: ta bình thường rồi, bình thường rồi. (có lẽ cũng chưa lắm)

 

 

          Huyền công LPS nếu nghiêm chỉnh luyện tập để đạt đến thành quả rỏ rệt của từng giai đoạn một, củng phải trải qua từ sáu đến chín năm theo ước tính mỗi “tầng” mất khoảng hai hoặc ba năm khổ luyện. Một chữ khổ đặt xuống đây đã lược bớt giùm ngòi viết một trang dài chi tiết. Các nhập môn sinh không khỏi thắc mắc về thời gian luyện Huyền công và dể ngã lòng nếu so với các võ phái danh tiếng khác chỉ trong vòng ba năm đã đạt được đẳng cấp Huyền đai cùng với thân thủ quyền cước tung hoành tứ phương vô ngại.  Một đàng là tập mãi vẩn còn tập mãi, một đàng là cấp công cận lợi mau thành tài. Không khó khăn lắm để chọn lựa. 

 

          Thật ra, chúng ta nên tìm hiểu thêm về chi tiết này trước khi chọn cho mình một hướng đi, một môn phái và một pháp thích hợp luyện tập.

 

 Do Duyên phận khác nhau nên đưa đến kết Quả khác nhau tuy có cùng một nguyên Nhân khởi đầu. Thoạt tiên, tuy các phái đều lấy võ là chính để luyện công, nhưng một số chủ trương luyện rốt ráo các kỷ thuật để biến võ thuật bản phái trở thành một tuyệt kỷ riêng của mình được ấn chứng qua các kỳ thi lên đai hoặc thượng đài tỷ đấu rạng danh sư môn, rạng rở danh mình. (phải chăng vì khí huyết bôn đồn ở thượng đan điền?)

 Võ công luyện  + võ thuật truyền:   trở thành   võ nghệ riêng  trong một thời gian ngắn có thể thắng người.

 

Còn lại một số cũng bước đầu lấy võ luyện công, nhưng dần khai và thông các luồng khí châu thân, di dưỡng Thần khí thần thức, một sát na hoát nhiên thấu ngộ lẻ huyền vi cuộc đời, bước nhẹ thênh thang trên võ đạo sau khi đã thắng xong kẻ thù lớn nhất: tự chính bản ngã.

 

Võ công luyện + Tâm pháp Khí công:   thăng hoa trên võ đạo sau một thời gian dài tự thắng mình.

 

Sau nhiều năm còn sống sót ngoài đời, tôi chiêm nghiệm về cái lý lẻ biển lớn vi tang điền biến thành ruộng dâu của cuộc đời này và nhận ra rằng có quá nhiều cao thủ một thời đến một ngày nào đó bổng khai tử tên tuổi lẩy lừng bao năm qua và âm thầm khai sinh một pháp danh mới lần tìm đến võ đạo. Chừng như tôi chưa nghe và biết qua một bậc môn sinh chân chính võ đạo lại ồn ào quảng bá và quảng cáo nền võ nghệ riêng mình. Võ đạo ở đây được hiểu là dụng võ để mở cánh cửa huyền vi của tạo hóa chứ không mang nghĩa hạn hẹp như là một đường lối dâng hết đời mình say mê và chỉ nghiên cứu mỗi mỗi về võ công thượng thặng như ta thường nghe các từ Hoa đạo, Trà đạo, Kiếm đạo v.v…

 

Mặt trời ló dạng ở hướng đông và ngã lặng về tây quyện khơi bao kỳ diệu của chư Pháp. Chừng như dưới ánh quang minh rực rở của vùng viển đông, nhìn đâu cũng là Pháp để luyện, luyện hiển, luyện mật…bất cứ một dị nhân nào đều có thể là một kỳ nhân, một chân nhân. Luyện võ cũng vậy, đều là một trong chư pháp hành trạng của nhân giả, có những bước rỏ rệt của một lộ trình dài không bóng thời gian.

 

 

 

                                                                            Tĩnh Ngạn Huỳnh Bá Hinh


Keywords
Archive
January February March April May June July August September October (1) November (1) December
January February March April May June July August September October November December
January February March April May June July August September October November December
January February March April May June July August September October November December
January February March April May June July August September October November December
January February March April May June July August September October November December
January February March April (3) May June July August September October November December
January February March April May June July August September October November (1) December
January February March April May June July August September October November December
January February March April May June July August September October November December
January February March April May June July August September October November December
January February March April May June July August September October November December